Đừng sợ trí tuệ nhân tạo, hãy lo mình không kịp chuyển đổi số! – Dân Việt
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận
Khi nhấn đăng nhập đồng nghĩa với việc bạn đã đồng ý với điều khoản sử dụng của báo Dân Việt
Đăng nhập
Email
Họ và tên
Mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất
Tôi và anh kết nối với nhau qua một người thân, rồi sau đó anh nhắn tin cho tôi từ Anh quốc, rằng anh về TP.HCM, rồi đi Đà Nẵng, rồi trở lại TP.HCM trước khi rời Việt Nam về Anh. Trùng hợp là tôi có mặt tại Đà Nẵng đúng thời gian anh- GS.TS Nguyễn Đức An cũng ở Đà Nẵng.
Sáng chủ nhật một ngày cuối tháng 6, Đà Nẵng nóng và oi bức. Tôi xuống sảnh khách sạn đợi anh. Đúng hẹn anh tới. Mặc dù đã “biết anh” qua một số hình ảnh GS An làm việc với một số trường đại học ở Việt Nam như Cần Thơ, Đà Nẵng, nhưng tôi vẫn hơi bất ngờ thú vị là anh vẫn đeo chiếc ba lô như một phóng viên Việt Nam điển hình, chứ không com lê cà vạt, xách ca táp như mấy ông Tây- Việt kiều.
Giáo sư đầu húi cua, người tầm thước, nhưng rắn chắc. Trông anh như một tiền đạo của Câu lạc bộ bóng đá cùng thành phố Bournemouth đứng thứ 12 Giải bóng đá Ngoại hạng Anh mùa bóng 2023-2024 vừa qua, hơn là một Giáo sư, tiến sĩ, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học, Sức khỏe và Truyền thông Dữ liệu, Giảng viên Đại học Bournemouth (Anh quốc).
Trong cuộc trò chuyện gần hai tiếng đồng hồ hôm ấy, Giáo sư An đã chia sẻ với tôi rất nhiều vấn đề thú vị xoay quanh câu chuyện truyền thông, báo chí: từ chuyện báo in, báo giấy đang chết dần ở phương Tây; cuộc cạnh tranh dữ dội giữa mạng xã hội (MXH) với báo chí, nguồn thu của báo chí đến sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo (AI), nhất là sự ra đời của ChatGPT đã và sẽ làm thay đổi bộ mặt báo chí như thế nào, nhà báo và các Tòa soạn báo ở Việt Nam cần phải thay đổi và trang bị cho mình những kiến thức gì để phát triển trong tương lai.
Theo GS, trí tuệ nhân tạo (AI) có “cướp” mất việc làm của các nhà báo?
– Báo chí, cũng như các ngành công nghiệp khác, đang đứng trước ngưỡng cửa chuyển đổi số, trong bối cảnh những công nghệ mới phát triển nhanh chóng. Trí tuệ nhân tạo đang chuyển đổi hoạt động của các tổ chức tin tức – đặt ra những câu hỏi về việc công nghệ này sẽ ảnh hưởng đến báo chí như thế nào. Các mối lo ngại bao gồm liệu các công cụ AI có thể tạo ra và đẩy nhanh việc truyền bá thông tin sai lệch, cũng như tác động tiềm ẩn đối với các nhà báo trẻ học hỏi kiến thức hay dẫn đến tình trạng mất việc làm hay không?
Đó là những vấn đề nghiêm túc cần được đặt ra trong bối cảnh AI, đặc biệt là ChatGPT đang ngày càng tham gia sâu hơn vào quy trình làm báo.
Nhiều nhà báo đang cảm thấy lo bị mất việc khi AI đang ngày càng thâm nhập sâu hơn vào quy trình tác nghiệp của báo chí, đặc biệt là sự ra đời của ChatGPT. Theo GS liệu có phải đây là nỗi lo sẽ hiện hữu?
– Tôi nghĩ ngược lại: cần phải xem AI như là cơ hội để nhà báo được xã hội cần nhiều hơn nữa, chứ không phải là mối đe doạ về sự tồn vong.
Nỗi lo AI sẽ thay thế con người phổ biến trong rất nhiều lĩnh vực, nhưng nhìn chung đó là một nỗi lo thái quá, không đáng có, nhất là với những ngành nghề chuyên nghiệp đòi hỏi tư duy sáng tạo, điều nghiên và phản biện như báo chí.
Về bản chất, AI dựa trên việc sử dụng máy tính để xử lý các nguồn dữ liệu thô sẵn có, nhằm giúp cho máy móc có thể “tư duy” và tự động làm – và làm rất hiệu quả – một số công việc của con người. Tôi nhấn mạnh là chỉ một số, chứ không phải tất cả, mọi công việc của con người.
Với báo giới, lo lắng về việc bị AI thay thế bắt đầu lan rộng khi OpenAI ra mắt ChatGPT hồi tháng 11/2022. Đùng đùng xuất hiện một công cụ máy tính có thể tự phác thảo ý tưởng, tự phân tích dữ liệu, tự tạo hình ảnh, âm thanh, tự lên kịch bản và bố cục, tự sắp đặt mọi thứ thành tin bài trong vài giây. Cho nên, một số nhà báo “phát hoảng”, tưởng như họ sắp trở nên thừa thải trong dây chuyền sản xuất báo chí.
Ai phép điều chỉnh và trình bày thông tin theo thời gian thực, được xác định bằng cách cá nhân hóa người dùng. Ảnh: .ml.run
Nhưng nếu lùi lại một bước để nhìn lại, bạn sẽ dễ nhận ra ChatGPT – và các công cụ AI tạo sinh nói chung – chỉ là những sản phẩm học máy (machine learning), dựa trên dữ liệu sẵn có. Khi người dùng đưa câu lệnh, các công cụ này sử dụng thuật toán và mô hình được đào tạo trên các bộ dữ liệu khổng lồ, để mô phỏng và tạo nội dung “mới” theo những gì đã có trước đó.
Mặc dù điều này khiến chúng trở thành một công cụ tạo sinh văn bản, hình ảnh, âm thanh… rất hiệu quả, chúng sẽ chẳng bao giờ thay nhà báo trong công việc trọng yếu nhất của nghề. ChatGPT hay Gemini không thể hóng tai, mở mắt trước dòng chảy xã hội, không thể đi quan sát hiện trường, tìm nguồn tin, phán đoán và xử lý tình huống phức tạp, khai thác câu chuyện theo bối cảnh, điều tra và kiểm chứng thông tin… Những thứ đó đòi hỏi cái căn cơ nhất làm nên xã hội loài người – sự tương tác giữa người với người – cũng như nền tảng cơ bản nhất làm nên nhà báo là khả năng săn lùng và kiểm chứng thông tin.
Ở đây, cũng xin nhắc rằng các công cụ AI tạo sinh tuy hiệu quả và ấn tượng vậy đó, nhưng không dựa trên khả năng thẩm định thông tin như nhà báo. Chúng chỉ được đào tạo để kết nối hàng tỉ tỉ điểm dữ liệu khác nhau, mô phỏng theo đó để đưa ra phiên bản cuối cho người dùng, nhưng hãy coi chừng. Trong kho dữ liệu khổng lồ đó, có đủ thứ thượng vàng hạ cám, kể cả các loại tin vịt, tin giả, những thông tin mang tính phân biệt về chủng tộc, giới tính, thành phần xã hội, và rất nhiều nội dung phản cảm xã hội và nguy hiểm khác.
Chưa kể, các mô hình phỏng đoán nhiều lúc cho ra nhiều nội dung mô phỏng sai lệnh đến buồn cười. Cuộc bầu cử Anh quốc sẽ diễn ra vào ngày 4/7 tới, nhưng bây giờ (đầu tháng sáu), nếu bạn hỏi, ChatGPT sẽ trả lời ngay (ở thì quá khứ) là Đảng Lao động đã chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử Anh, với những dòng mô tả rất tỉ mỉ họ thắng thế nào và vì sao.
Trên thực tế, giới công nghệ AI thấu điều đó, cho nên họ đã và đang tìm cách kéo báo giới về cùng mình, để báo giới cho phép họ sử dụng các cơ sở dữ liệu báo chí trong việc đào tạo các nền tảng AI tạo sinh.
Đi sâu thêm vào thế giới “học sâu” (deep learning) của AI tạo sinh, ta sẽ nhận ra rằng nhiều tác nhân xấu, các chiến dịch PR bẩn, đang càng ngày càng tinh vi tận dụng AI để tạo ra những nội dung làm nhiễu loạn dư luận, đổi trắng thành đen, gieo rắc sự nghi kỵ, chia rẽ các cộng đồng vì mục đích ý thức hệ, chính trị, tài chính-thương mại và/hoặc văn hoá. OpenAI đã phát triển công cụ Sora biến từ ngữ thành video rất “khủng” nhưng ngần ngại tung ra thị trường ngay, vì những lo ngại về an toàn.
Theo giáo sư Christopher Pissarides, nhà kinh tế từng đoạt giải Nobel, công nghệ AI như ChatGPT có thể giúp tăng năng suất của người lao động. Ảnh: Tech Unwrapped
Ngay cả khi chưa có Sora, mọi thứ đã bắt đầu hỗn loạn rồi! Trong cuộc bầu cử ở Ấn Độ vừa rồi chẳng hạn, người ta dùng AI để giả giọng nói, hình ảnh các chính trị gia thật đến nỗi ngay những người nhà do thám hình ảnh-âm thanh chuyên nghiệp cũng không thể phát hiện được bằng những công cụ điều tra truyền thống. Các nhà báo Ấn Độ phải tìm đến các nhà khoa học và chuyên gia công nghệ trong và ngoài nước để lấy lửa chữa lửa, tức là phối hợp với giới khoa bảng phát triển công cụ AI nhằm phát hiện và phơi bày những cái giả do chính “AI xấu” tạo ra.
Tôi nói vài khía cạnh như thế thôi, chứ còn nhiều thứ để khẳng định rằng, trong một thế giới đang ngày càng dựa vào AI tạo sinh, nhà báo – nếu vượt qua khó khăn để tiếp tục theo đuổi những chuẩn mực đạo đức nghề, kết hợp tư duy AI và bề dày kinh nghiệm hằng trăm năm trong phân định trắng đen, phải trái, tốt xấu – có lẽ còn quan trọng hơn chứ không phải thừa thải đi.
Tuy vậy, giới báo chí cũng không thể phủ nhận khả năng AI thay thế rất nhiều việc quan trọng trong quy trình làm báo, thưa Giáo sư!
– Chính xác – và cần xem đó như một cơ hội có một không hai cho nghề báo, để tự động hoá nhiều việc trong quy trình tác nghiệp, cũng như phương thức truyền tải, phân phối tin bài đến độc/khán/thính giả.
Chẳng hạn, với các loại tin đơn giản, hoặc tin có tính thông báo, lặp đi lặp lại về bản chất (chẳng hạn như tin tài chính, kết quả thể thao, thời tiết..), nhà báo không còn cần hằng giờ để viết, chỉ cần nhập dữ liệu cần thiết để công cụ AI làm trong vài giây. Hay thay vì bỏ cả ngày để lên ý tưởng rồi tạo infographics, làm các sản phẩm âm thanh-hình ảnh, hay xử lý số liệu, toà soạn có thể nhờ AI hỗ trợ trong chớp mắt, đôi khi với nhiều sản phẩm thượng hạng, vượt trí tưởng tượng.
Rồi nhiều đoạn việc nhỏ khác như tìm ý tưởng, nguồn tin, phác thảo nội dung, lên câu hỏi phỏng vấn, dịch thuật tư liệu, chỉnh sửa bản thảo… Một nghiên cứu chỉ ra rằng việc sử dụng AI trong báo chí có thể giúp tự động hóa công việc của biên tập viên tới 9% và công việc của phóng viên lên 15%.
Nếu biết tận dụng AI, nhà báo có thêm nhiều thời gian để tập trung vào các bài có chiều sâu, những nội dung đòi hỏi chuyên môn và sự tập trung cao hơn. Tuy nhiên, khảo sát gần đây do Cision thực hiện ở 19 quốc gia cho thấy hơn một nửa nhà báo vẫn chưa hề sử dụng AI tạo sinh trong tác nghiệp.
Ở Việt Nam, tôi chưa có nhiều dữ liệu về vấn đề này, nhưng được biết, AI đã được một vài tòa soạn sử dụng từ khá sớm, trước ChatGPT khá lâu.
Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy mọi thứ còn chậm, thiếu sự chuẩn bị, làm kiểu ngẫu nhiên, sự vụ (cái gì dễ, tiện thì làm), chứ không theo chiến lược bài bản. Có thể tôi sai – và tôi mong là tôi sai khi nói điều này – nhưng dường như mọi thứ vẫn chỉ mang tính phong trào. Cần phải rà soát lại toàn bộ quy trình sản xuất, phân phối và kinh doanh tin bài, rà soát đến từng chi tiết để xác định rõ cái nào tự động hoá được, cái nào cần hoặc nên tự động, cái nào cần được đầu tư thêm về công nghệ, cần phát triển nhân sự…
Đồng thời, cũng cần định rõ chiến lược để đối đầu với các mối nguy tiềm ẩn mà AI mang lại cho môi trường tin tức, như đã nói ở trên. Chẳng hạn, nhà báo làm gì khi vừa đầu tư công sức làm một bài báo đàng hoàng, lại bị ngay ai đó sử dụng công cụ AI để “vặn bẻ”, xuyên tạc nội dung đó theo một hướng ngược lại?
Sức mạnh của nền tảng kỹ thuật số là điều báo chí cần hướng đến. Ảnh linkedin
Cuối cùng, cũng cần hoạch định và minh bạch hoá các chính sách và chuẩn mực sử dụng AI cho tòa soạn, để nhà báo luôn ý thức đâu là điểm dừng trong việc dùng AI tạo sinh. Những công cụ đó đầy mãnh lực, nên cũng rất cám dỗ – và chỉ có ý thức đạo đức nghề và trách nhiệm xã hội với công chúng mới có thể giúp nhà báo không lạm dụng AI, đứng vững trước những lằn ranh mong manh giữa thực tại và trí tưởng tượng, cũng như hạn chế những mặt trái đằng sau trang báo của AI.
Làm được những việc đó cần năng lực số vững chắc, nhưng đây lại là một điểm yếu, vì báo chí ta có một quá khứ chậm chạp trong chuyển đổi số, lại đang phải đối đầu với các nguy cơ sinh tồn trước mắt, nhất là sự khủng hoảng mô hình kinh doanh.
GS Nguyễn Đức An chia sẻ: Báo chí thế giới nói chung và báo chí Việt Nam nói riêng đều rơi vào cái bẫy tự mãn và trì trệ của người khổng lồ. Ban đầu họ xem nhẹ Internet. Đến khi di cư lên mạng, họ cải tiến nửa vời, lập website để làm rào cản bảo vệ thị trường truyền thống, hơn là để dấn thân cùng công nghệ mới, tận dụng những tính năng ưu việt của Internet để tạo nên những sản phẩm tin tức mới. Nhiều người chắc còn nhớ báo mạng thời đó đều chỉ là tập hợp các tin bài đã đăng phát trên phiên bản truyền thống, ít có nội dung riêng hay mang đặc trưng số.
Mãi đến nửa cuối thập niên 2000, và nhất là trong 10 năm trở lại đây, báo chí mới có những chuyển biến tích cực. Nhưng trừ vài trường hợp, phần lớn đã chậm chân so với các khổng lồ sinh ra và lớn lên như Thánh Gióng trong thế giới số như Google, Facebook, Twitter, Amazon… Tin số ăn mòn dần tin truyền thống, chia vụn thị trường và từ lâu đã không còn là “độc quyền” của báo chí chuyên nghiệp. Việc phân phối/phát hành tin lệ thuộc rất nhiều vào các nền tảng công nghệ lớn (big tech).
Mô hình kinh doanh truyền thống (dựa trên lợi thế về quy mô) không còn thích hợp. Quảng cáo đại trà từ trên xuống dần nhường chân cho quảng cáo cá nhân hoá, dựa trên dữ liệu tiêu dùng từ dưới lên. Google, Facebook, Instagram… vẫn thống lĩnh thị trường quảng cáo số trong khi các tờ báo thì vẫn phải loay hoay tìm lối ra cho bài toán doanh thu. Cho tới nay, số tờ báo sống được nhờ bán nội dung trên thế giới vẫn còn đếm trên đầu ngón tay.
Báo chí ta cũng vậy, thực tế là chậm trễ và thiếu tinh thần cách tân hơn trong chuyển đổi số. Các báo đài gần đây đầu tư nhiều vào sản phẩm số, cải tiến công nghệ và quy trình làm báo nhưng chừng như vẫn chưa thể dứt khỏi sức ì nội tại, khỏi sự giằng co giữa bảo vệ cái cũ và phát triển cái mới. Hơn nữa, họ thực sự thiếu kinh nghiệm và chuyên môn để khai thác số trong khi vòng vây kinh tế ngày càng thắt chặt hầu bao phát triển.
Ngay cả việc xây dựng toà soạn hội tụ, hiện cũng chỉ có vài báo đài làm được, còn lại vẫn theo mô hình phòng ban cũ, “mỗi bên hùng cứ một phương” thì làm sao xây dựng thành những tổ hợp truyền thông số, đa phương tiện, đa nền tảng và đa chức năng được? Chưa làm được những việc này thì chưa thể nghĩ đến việc thu phí nội dung như một số báo đang thử nghiệm, càng không thể bảo đảm sự phát triển bền vững về lâu dài.
Sinh viên một trường đại học tìm hiểu về hoạt động của tòa soạn Báo Điện tử VnExpress. Mỹ Trinh
“Tôi muốn nói rằng chuyển đổi số không phải bắt đầu từ công nghệ mà từ việc chuyển đổi tư duy triệt để, chuyển từ “phòng thủ” sang “tấn công” trong công cuộc cách tân, rồi xây dựng con người, tổ chức, mô thức hoạt động và văn hóa toà soạn theo các xu hướng công nghệ tương lai. Trong mọi hành động đổi mới, phải theo sát bước chân công chúng và thị trường, lấy đọc/khán/thính giả, chứ không phải nhà báo, là trọng tâm trong chiến lược phát triển. Làm được điều đó rồi thì mới tính được bước tiếp theo là đa dạng hoá nguồn thu thế nào, làm sao để tồn tại”, GS An nhấn mạnh.
Có một điểm yếu cố hữu là giới báo chí Việt Nam ít có cơ hội tiếp xúc các nghiên cứu về truyền thông và báo chí được công bố trên các tạp chí có uy tín về lĩnh vực này hay tại các diễn đàn khoa học lớn. Lời khuyên của GS là gì?
– Tôi nghĩ đây là một điểm yếu không chỉ trong giới hành nghề mà cả giới nghiên cứu báo chí-truyền thông ở ta hiện nay. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng nghiên cứu học thuật chỉ là một trong nhiều kênh thông tin để các nhà truyền thông chuyên nghiệp cập nhật tri thức. Trên thực tế, ở các nước Âu Mỹ, nhà báo dễ dàng tiếp cập nghiên cứu học thuật hơn ta, nhưng không phải ai cũng mặn mà với nó, vì thường nghiên cứu học thuật thiên về khám phá và giải thích xã hội, hơn là ứng dụng.
Tôi không có ý nói là giới nghiên cứu học thuật không đủ sức đáp ứng yêu cầu từ giới hành nghề. Nhưng cần một sự chủ động tìm đến với nhau và bắt tay hợp tác giữa hai bên. Viện Reuters thuộc ĐH Oxford nhờ nguồn tài trợ dồi dào từ các công ty công nghệ và báo chí mà hàng chục năm nay liên tục sản xuất nhiều công trình và ấn phẩm nghiên cứu báo chí rất thiết thực. Tôi ước mong một ngày, các báo đài và doanh nghiệp truyền thông Việt Nam cũng hợp sức tài trợ cho một tổ chức nghiên cứu tương tự như thế để ta có thể chuyển đổi số truyền thông một cách có cơ sở khoa học hơn.
Sẵn tiện, tôi thấy cũng cần nêu bật vai trò của công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) như một phần tất yếu trong chuyển đổi số. Rất tiếc là báo chí Việt Nam, vì lý do lịch sử, rất lơ là mảng này.
Hiện nay, ta cứ thấy báo chí Âu Mỹ làm thế nào thì bắt chước theo, nhưng tôi xin nói ngay, không phải cái gì bên Tây cũng khôn ngoan, hữu ích hay hợp lý với ta. Phải có hàm lượng nghiên cứu nội địa cao trong mọi sản phẩm, qua R&D cũng như qua hợp tác với giới khoa bảng. Muốn khai thác AI tốt chẳng hạn, không thể cứ làm theo phán đoán và ý chí mà phải thử nghiệm, thử nghiệm và thử nghiệm.
Xin cảm ơn GS An vì cuộc trò chuyện này!